Người theo trường phái tự do cho rằng nhiệm vụ của nhà nước chỉ và dứt khoát chỉ là bảo đảm việc giữ gìn đời sống, sức khoẻ, tự do và sở hữu tư nhân khỏi những cuộc tấn công bằng bạo lực mà thôi. Ngoài những cái đó ra đều là không tốt. Chính phủ, thay vì thực hiện nhiệm vụ của mình, lại đi xa đến mức, thí dụ, như can thiệp vào sự an toàn về cuộc sống và sức khoẻ, tự do và tài sản của cá nhân, dĩ nhiên là hoàn toàn không tốt.
-
-
Ludwig von Mises (1881-1973) – Chủ nghĩa tự do truyền thống (phần 4)
-
Ludwig von Mises (1881-1973) – Chủ nghĩa tự do truyền thống (phần 3)
Chỉ những nhóm tìm được sự đồng thuận của những người bị trị thì mới có thể thiết lập được chế độ có tuổi thọ lâu dài mà thôi. Kẻ, muốn thấy thế giới được cai trị theo những tư tưởng của hắn, sẽ buộc phải tìm cách chi phối tư tưởng của con người. Về dài hạn, bắt dân chúng tuân phục chế độ mà họ không chấp nhận là việc làm bất khả thi. Kẻ cố tình làm điều đó bằng vũ lực cuối cùng nhất định sẽ bị thất bại và những cuộc đấu tranh do hắn kích động sẽ gây ra nhiều tai hoạ hơn là một chính phủ tồi tệ nhất nhưng được nhân dân ủng hộ có thể làm. Làm trái ý người ta thì làm sao người ta hạnh phúc cho được?
-
Ludwig von Mises (1881-1973) – Chủ nghĩa tự do truyền thống (phần 2)
Chủ nghĩa tự do không bao giờ đặt ra mục tiêu cao hơn, cũng chẳng bao giờ đòi hỏi cao hơn. Biến một người da đen thành da trắng là việc làm bất khả thi. Nhưng cho người da đen được hưởng những quyền như người da trắng và bằng cách đó tạo điều kiện cho anh ta có thu nhập như người da trắng nếu anh ta cũng có năng suất lao động như người kia.
-
Thị trường và đạo đức (kỳ 18)
Đầu tư tư nghĩa là tự chịu rủi ro với hy vọng là sẽ có lời trong tương lai, còn “đầu tư” công nghĩa là lấy và tiêu tiền của người khác nhằm nhằm thực hiện ý tưởng của bạn về việc những người kia nên sống như thế nào hoặc nhằm thỏa mãn những nhóm quyền lực giúp bạn được bầu lại trong lần bầu cử tới. Đầu tư tư đòi hỏi phải hoãn chi tiêu trong ngày hôm nay để có thể [hi vọng thế] thu được nhiều tiền hơn trong tương lai, trong khi “đầu tư” công là chi tiêu ngay ngày hôm nay.
-
Đợi tới bao giờ?
Ngẫm cũng lạ. Cái xấu, cái dở thì họ nhanh lắm, như ăn cắp, chụp ảnh trần truồng, rồi đua đòi theo iPhone này kia thì lúc nào cũng dẫn đầu thế giới, còn cái hay, cái đẹp thì cứ phải đợi 100 năm nữa.
-
Thị trường và đạo đức (kỳ 17)
Sự thật trần trụi là như thế, ngôn từ hoa mĩ của những người theo đường lối xã hội chủ nghĩa không thể nào thay đổi được nó. Muốn sống, người châu Âu phải bám lấy cơ chế tự do kinh doanh, một cơ chế đã được thử thách trong một thời gian dài. Lựa chọn khác là chiến tranh và chinh phục. Người Đức đã thử làm như thế hai lần và cả hai lần họ đều thất bại.
-
Thị trường và đạo đức (kỳ 15)
Chúng ta phải hỏi chính phủ đang làm gì với chúng ta chứ không phải hỏi họ đang làm gì cho chúng ta. Chính phủ của chúng ta đang làm hại chúng ta: họ ăn cắp của chúng ta, họ ngăn chặn, không cho chúng ta buôn bán, và làm cho người nghèo càng nghèo thêm. Những nhà đầu tư ở địa phương không được phép cạnh tranh vì chế độ pháp quyền không tồn tại trong các nước nghèo. Có thể đấy là lý do làm cho họ trở thành những nước có thu nhập thấp – vì nhân dân không được chính phủ tôn trọng.
-
Thị trường và đạo đức (kỳ 14)
Tạo công ăn việc làm không phải là công việc của chính phủ. Chỉ có lĩnh vực tư mới tạo được việc làm ổn định. Công việc do chính phủ tạo ra là dựa vào tiền của người đóng thuế và được coi là công việc được trợ cấp. Vì là những công việc không ổn định cho nên chúng không tạo được hậu quả kinh tế tích cực. Khu vực tư nhân là khu vực tạo ra của cải chủ lực, còn khu vực nhà nước chỉ là khu vực tiêu thụ mà thôi.
-
Thị trường và đạo đức (kỳ 13)
Của cải thường không nằm lâu trong bàn tay của cùng một người. Nó được chuyển từ tay người này sang tay người khác, đấy là khi những thay đổi không dự đoán được làm tăng giá trị cho khi thì nguồn lực này, khi thì nguồn lực khác, gây ra sự thăng giáng của đồng vốn. Chủ tài sản, nói như Schumpeter, giống như những người ở trọ trong khách sạn hay hành khách trên tàu hỏa vậy: họ luôn có mặt ở đó, nhưng chẳng bao giờ có những người ở lâu.
-
Thị trường và đạo đức (kỳ 12)
Sai lầm của nhiều người là coi mục tiêu của người ta chỉ là “tư lợi”, rồi sau đó lại lẫn lộn tư lợi với “ích kỷ”. Mục tiêu của những người tham gia thị trường là mục tiêu của bản thân, nhưng như những con người sống có mục đích, chúng ta còn lo lắng đến quyền lợi và hạnh phúc của những người khác nữa – các thành viên trong gia đình, bạn bè, hàng xóm và thậm chí những người hoàn toàn xa lạ, những người chúng ta chẳng bao giờ gặp. Thực ra, thị trường tạo điều kiện cho người ta để ý tới nhu cầu của tha nhân, kể cả những người hoàn toàn xa lạ.
-
Thị trường và đạo đức (kỳ 10)
Người ta ca ngợi hay phê phán một người không phải vì anh ta giàu hay nghèo mà vì hành động mà anh ta làm. Địa vị khác nhau tạo ra khả năng khác nhau trong việc thực hiện những hành vi tốt hay xấu, đạo đức hay vô đạo, công bằng hay bất công, nhưng những tiêu chuẩn vừa nói bên trên - chứ không phải khả năng ban đầu hay kết quả cuối cùng – mới chi phối hành vi của con người.
-
Thị trường và đạo đức (kỳ 9)
Vùng đất của những người quân tử đã có nhà nước và thị trường, điều đó chứng tỏ rằng người dân ở đấy đã rời bỏ nền kinh tế tự cấp tự túc và đã chọn con đường trao đổi nhằm cải thiện hoàn cảnh kinh tế của mình. Thế thì tại sao họ lại không nghĩ đến quyền lợi của mình khi tham gia trao đổi kinh tế? Dĩ nhiên là, nếu ngay từ đầu trao đổi là để làm giảm lợi thế của mình và tăng lợi thế của người khác thì hành vi “quân tử” là có thể xảy ra. Nhưng mọi người tham gia trao đổi hay có kinh nghiệm về trao đổi đều biết rằng hai bên tham gia trao đổi đều tham gia vì lợi ích của mình, còn người nào hành động ngược lại với quyền lợi của mình trong quá trình trao đổi là người có động cơ sai lầm.
-
Thị trường và đạo đức (kỳ 8)
Tự do kinh tế mang đến cho người ta nhiều lợi ích, nhưng ít người hiểu được vì sao sự thịnh vượng lại gia tăng một cách bất ngờ đến như thế. Những người sẵn sàng đi theo những triết lý truyền thống, đã bám chặt vào đầu óc của họ, dễ dàng trở thành miếng mồi ngon cho những kẻ rao bán chủ nghĩa tập thể và ép buộc, coi đấy là con đường dẫn tới tương lai tốt đẹp hơn.
-
Thị trường và đạo đức (kỳ 7)
Văn hóa thương trường thường được người ta mô tả như là “khả năng sống sót của những người phù hợp nhất”, trong đó đa số người hoặc là phải làm ra nhiều của cải hoặc là sẽ bị thương trường loại bỏ và trở thành thân tàn ma dại. Những người theo tư tưởng tập thể sẽ thuyết phục chúng ta rằng trên thực tế thị trường rất có hại đối với người nghèo. Nhưng sự thật là, nền kinh tế không bị chính trị nhúng mũi vào là phương tiện hiệu quả nhất trong việc sử dụng các nguồn lực và đáp ứng các nhu cầu của con người.
-
Thị trường và đạo đức (kỳ 6)
Ban lãnh đạo và ban quản lý cao cấp sẽ bị coi là những kẻ đạo đức giả. Khi dối trá càng ngày càng bị bỏ qua, và khi tiêu chuẩn kép được chấp nhận trên thực tế thì nhất định sẽ xảy ra những vụ tai tiếng. Vấn đề chỉ còn là thời gian mà thôi. Nếu ban lãnh đạo công ty không tin vào sự tồn tại của những tiêu chuẩn tuyệt đối, tức là những tiêu chuẩn có giá trị tự thân và họ phải phục tùng, thì khó có thể hiểu được làm thế nào mà công ty có thể tiếp tục đưa trung thực vào trong những giá trị cốt lõi của nó. Tính cách lươn lẹo của con người, nơi ẩn trú của tính tự tư tự lợi, không thể là nền tảng để xây dựng những giá trị đạo đức lâu dài được. Cần phải có một cái gì đó lớn hơn tính tự tư tự lợi của những người lãnh đạo doanh nghiệp thì đức hạnh mới đứng vững được.
-
Thị trường và đạo đức (kỳ 5)
Muốn có lợi nhuận thì bác sỹ phải để ý tới quyền lợi của bệnh nhân bằng cách đặt ông ta hay bà ta vào vị trí của bệnh nhân, buộc họ phải tưởng tượng được những đau khổ của người khác và phải có lòng trắc ẩn. Trong nền kinh tế thị trường tự do, động cơ lợi nhuận có thể trở thành tên gọi khác của động cơ trắc ẩn.
-
Thị trường và đạo đức (kỳ 3)
Các nhà kinh tế học và các nhà sử học bắt đầu nhận thức được rằng đối với việc kích hoạt cuộc Cách mạng công nghiệp thì điều này có ý nghĩa hơn, hơn hẳn việc ăn cắp hay tích lũy tư bản – nó đã tạo ra một sự thay đổi to lớn trong cách nghĩ của người phương Tây về thương mại và sáng kiến. Người ta bắt đầu thích “sự phá hoại mang tính sáng tạo”, thích ý tưởng mới thay thế cho ý tưởng cũ.
-
Thị trường và đạo đức (kỳ 2)
Những người biện hộ cho chủ nghĩa tư bản không biết trả lời như thế nào vì họ đã công nhận lý do chủ yếu cho sự phê phán của chủ nghĩa cộng sản rồi. Họ cần phải thoát ra khỏi nỗi ám ảnh về tư lợi và bắt đầu nhìn thấy những giá trị mà chủ nghĩa tư bản tạo ra không chỉ cho các nhà đầu tư – mặc dù dĩ nhiên là như thế rồi, mà còn tạo ra giá trị cho tất cả những người tham gia mua bán với doanh nghiệp: tạo ra giá trị cho người tiêu dùng, cho công nhân, cho nhà cung cấp, cho toàn thể xã hội, nó tạo ra cả giá trị cho chính phủ nữa. Ý tôi là chính phủ sẽ ra sao nếu không có khu vực kinh tế mạnh, tức là khu vực tạo ra công ăn việc làm và của cải để chính phủ đánh thuế?
-
Thị trường và đạo đức (kỳ 1)
Chủ nghĩa tư bản không chỉ là những người đổi bơ lấy trứng trong những khu chợ làng quê, điều này đã và vẫn xảy ra cả ngàn năm rồi. Đấy là giá trị gia tăng nhờ huy động năng lực và tài khéo của con người trên quy mô chưa từng có trong lịch sử nhân loại nhằm tạo ra của cải cho những người bình thường mà ngay cả những ông vua, những hoàng đế giàu có nhất và quyền lực nhất trong quá khứ cũng phải chói mắt và kinh ngạc. Đấy là sự xói mòn hệ thống quyền lực, xói mòn hệ thống cai trị và đặc quyền đặc lợi đã ăn sâu bén rễ từ lâu, và là mở rộng cửa “nghề nghiệp cho tài năng”. Đấy là dùng thuyết phục thay cho bạo lực. Đấy là thay đố kỵ bằng thành tựu. Đấy là những thứ làm cho cuộc đời tôi cũng như cuộc đời bạn trở thành dễ chịu.
-
Bill Anderson – Những phẩm chất tốt đẹp của nền kinh tế tự do
Trí óc con người ta thường lúng túng và lầm lẫn trước vấn đề tự do kinh tế. Trong suốt hai thế kỷ qua phương Tây đã là nơi thể hiện tính ưu việt của tự do kinh tế, nhưng như nhà thần học Michael Novak đã chỉ ra: “Trong lịch sử trí tuệ phương Tây, thóa mạ chủ nghĩa tư bản là một trong số ít đề tài được nhiều người thảo luận nhất”[1]. George Gilder, trong tác phẩm uyên thâm: Wealth and Poverty (Giàu và nghèo), đã buồn bã nhận xét rằng nhiều người có tư tưởng ủng hộ tự do kinh doanh không phải là vì họ đồng ý với những đặc điểm của nó (họ cho rằng đấy là sự suy đồi về mặt đạo đức), mà đơn giản là vì lý do công lợi: Nó tạo ra nhiều của cải hơn là chủ nghĩa tập thể có thể làm[2].
-
Douglas Bandow – Quyền tự do bất khả phân: Tự do cá nhân, tự do chính trị, tự do kinh tế
Các nhà làm luật ít khi công nhận rằng họ đang hạn chế quyền tự do của bất kỳ ai. Họ thường tuyên bố rằng phải bảo vệ người tiêu dùng. Trên thực tế, giới tinh hoa chính trị đã tạo ra hai loại quyền tự do: Những quyền tự do quan trọng và tự do kinh tế. Nếu vấn đề là quyền tự do chỉ trích chính phủ, quan hệ tình dục, lựa chọn bạn đời hoặc bảo vệ cuộc sống cá nhân riêng tư thì ít nhất hầu hết các chính trị gia cũng đều nói rằng đây là những quyền tự do quan trọng, cần phải bảo vệ. Trong khi đó một số người ủng hộ một cách quyết liệt sự can thiệp vào kinh tế lại khẳng định rằng những quyền tự do cá nhân vừa nói là những quyền tự do căn bản, phải được tôn trọng.
-
Bàn về chủ nghĩa cá nhân – Bài 7
Theo Marx, chủ nghĩa tư bản là giai đọan tất yếu và không thể tránh được trong lịch sử nhân lọai, tức là lịch sử đưa con người từ hoàn cảnh sơ khai đến thiên đường của chủ nghĩa xã hội. Nếu chủ nghĩa xã hội là bước đi tất yếu và không thể tránh được trên con đường tiến tới chủ nghĩa xã hội thì người ta không được liên tục phàn nàn rằng những điều tư sản làm là xấu về mặt đạo đức - đấy là theo quan điểm của Marx. Thế thì tại sao Marx lại tấn công các nhà tư sản?
-
Bàn về chủ nghĩa cá nhân – Bài 6
Những người theo thuyết cá nhân chủ nghĩa là những người ủng hộ chính phủ tối thiểu và phản đối đế quốc và thực ra là phản đối tất cả những hình thức của chủ nghĩa tập thể, dù đấy có là chủ nghĩa tập thể mang mầu sắc sắc tộc hay dân tộc thì cũng thế. Họ còn liên kết với nhiều phong trào khác, mà trên hết là phong trào nữ quyền, nhiều người lãnh đạo của phong trào này thời đó tự coi mình là những người theo thuyết Cá Nhân chủ nghĩa. Trung tâm của luận cứ là liệu chính phủ có trách nhiệm thúc đẩy sự thịnh vượng chung của tập thể, tức là sự thịnh vượng được coi là đứng trên và bên ngòai sự theo đuổi hạnh phúc cá nhân và liệu có một bản sắc tập thể lấn át yêu cầu của những con người cụ thể hay không.
-
Bàn về chủ nghĩa cá nhân – Bài 5
Xã hội nên coi mình như một cá nhân, với tất cả những quyền lợi của một cá nhân; và khi nhận thức rõ những quyền lợi đó, nó phải theo đuổi quyền lợi với ý chí không gì lay chuyển được như thể cá nhân theo đuổi quyền lợi của mình. Không chỉ có thế, xã hội phải được hướng dẫn, như cá nhân được hướng dẫn, bởi trí thức xã hội, được trang bị bằng tất cả kiến thức do tất cả các cá nhân tập hợp lại, với sức lao động, lòng nhiệt tình và tài năng, tức là tất trí thông minh mà xã hội có.